THÔNG TIN CHUNG
Tên gọi: Bạch thược
- Tên khoa học: Paeonia lactiflora Pall. Họ Mao lương (Ranunculaceae).
- Đồng danh: Paeonia albiflora Pall.
- Tên khác: Mẫu đơn trắng.
Mô tả:
Cây thảo, sống lâu năm, cao 50 – 80cm. Rễ củ to, mập, mặt ngoài màu nâu, ruột màu trắng hoặc hồng nhạt. Thân nhẵn, mọc thẳng. Lá mọc so le, có cuống dài, chia thành 3 – 7 thùy hình trứng hoặc mác thuôn, dài 8 – 12cm, rộng 2 – 4cm, đầu nhọn.
Hoa to mọc riêng lẻ ở ngọn thân, gồm nhiều cánh màu trắng, nhị vàng.
Mùa hoa: tháng 5 – 7, mùa quả: tháng 8 – 9.
Tránh nhầm với cây hoa thược dược (Dahlia variabilis Desf) thuộc họ Cúc (Asteraceae) mà nhiều sách vẫn dùng để chỉ bạch thược. Cây này được trồng làm cảnh và trang trí vào ngày Tết Nguyên đán. Cũng tránh nhầm với cây đơn đỏ, đơn trắng (thuộc chi Ixora, họ Rubiaceae) là những cây bản địa cũng được gọi là mẫu đơn.
Phân bố:
Paeonia L. gồm một số đại diện là cây bụi. Một số tác giả đã tách chi này ra từ họ Ranunculaceae thành họ Paeoniaceae. Chúng phân bố ở vùng ôn đới ẩm Bắc bán cầu; ở Châu Âu đáng chú ý là vùng Địa Trung Hải; châu Á ở Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên và Ấn Độ. Chi Paeonia L. vốn nổi tiếng bởi một số loài được dùng làm cảnh (mẫu đơn: hoa to, đẹp, có mùi thơm đặc biệt) và làm thuốc quý (bạch thược, thược dược, xích thược).
Bạch thược vốn là cây mọc tự nhiên ở một số tỉnh Hắc Long Giang, Cát Lâm, Hà Bắc, Liêu Ninh, Sơn Đông … (Trung Quốc).
Do giá trị và nhu cầu làm thuốc tăng, nên bạch thược cũng như một số loài khác cùng chi đã được đưa vào trồng từ lâu đời ở nhiều địa phương ở Trung Quốc.
Bạch thược được nhập từ Trung Quốc vào Việt Nam giữa những năm 70 của thế kỷ trước. Cây được trồng thử ở một vài nơi như Sapa, Tam Đảo và Đà Lạt (1978) nhưng hiện nay chỉ có có Trạm Nghiên cứu cây thuốc Sapa – Viện Dược liệu trồng được cây này.
Bạch thược thuộc loại cây bụi ưa ẩm và ưa sáng. Cây trồng ở Sapa đã tỏ ra thích nghi với điều kiện khí hậu của vùng á nhiệt đới núi cao, nhiệt độ trung bình khoảng 15,3ºC, lượng mưa 2800mm/năm. Cây trồng từ hạt sau 4 hoặc 5 năm mới bắt đầu có hoa. Bạch thược rụng lá vào mùa đông, trên thân và cành có nhiều chồi ngủ. Đến khoảng giữa tháng 2 năm sau (sau tết âm lịch), từ các chồi ngủ nhanh chóng mọc ra cành và lá non mới. Mùa hoa bắt đầu giữa tháng 5, kéo dài từ 10 đến 15 ngày, song mỗi hoa chỉ nở trong vòng vài giờ, đến trưa đã bắt đầu tàn. Hạt giống thu được ở những cây trồng, đem gieo đã cho những lứa cây mới.
Bạch thược có khả năng mọc chồi từ gốc hoặc từ rễ của cây. Chồi tách từ rễ củ có thể làm cây giống để trồng.
Bộ phận dùng:
Rễ thu hái từ cây 3 – 5 tuổi vào mùa hè – thu, rửa sạch đất cát, cắt bỏ đầu đuôi và rễ con, gọt bỏ vỏ ngoài, cho vào nước sôi, đun sơ qua, vớt ra, đảo hoặc lăn tròn, rồi phơi hay sấy khô.
Rễ hình trụ tròn, hai đầu đều nhau hoặc một đầu hơi to hơn, thẳng hoặc hơi cong queo, dài 10 – 20cm, đường kính 1 – 2cm. Mặt ngoài màu nâu nhạt hoặc màu phấn trắng, chỗ chưa cạo hết vỏ có màu nâu xám, đôi khi có đường nhăn dọc rõ rệt.
Thành phần hóa học
Rễ bạch thược có chứa 3,30 – 5,70% paeoniflorin, oxypaeoniflorin, albiflorin, benzoyl paeoniflorin.
Tác dụng dược lý
- Tác dụng kháng khuẩn: Cao nước bạch thược có tác dụng kháng khuẩn trên Shigella, Vibrio cholerae, Staphylococcus, Salmonella, Pneumococcus, và Corynebacterium diphtheriae.
- Tác dụng trên co bóp ruột thỏ cô lập
- Nước sắc bạch thược ở nồng độ thấp gây ức chế; nồng độ cao, lúc đầu hưng phấn, sau ức chế.
- Nước sắc bài “bạch thược cam thảo thang” liều thấp có tác dụng kích thích sự co bóp bình thường, liều cao gây ức chế.
Nếu kích thích ruột thỏ từ trước bằng acetylcholin hoặc histamin, tác dụng ức chế rất rõ.
- Tác dụng kháng cholin: Cao methanol 50% và hoạt chất paeoniflorin có tác dụng anticholinergic trên chuột cống trắng in vitro mà biểu hiện là tác dụng chống co thắt, chống tiêu chảy. Ngoài ra còn có tác dụng giảm đau.
- Cao thân và lá có tác dụng chống thực khuẩn thể. Nước sắc rễ có tác dụng ức chế sự biến hóa sinh học acid arachidonic in vivo và in vitro. Trong thí nghiệm có so sánh với tác dụng của indomethacin.
- Bạch thược thường có trong các bài thuốc chữa rối loạn kinh nguyệt, như kinh nhiều, rong kinh, thống kinh và vô sinh. Do đó, đã nghiên cứu bài thuốc gồm bạch thược, quế, đơn bì, đào nhân, phục linh. Dùng nước sắc, liều tính ra dược liệu khô 300mg/kg chuột, uống trong 14 ngày thấy trọng lượng tử cung (cân tươi) giảm 65%, nồng độ LH giảm 94%, FSH giảm 67%, estradiol giảm 50%.
Tính vị quy kinh
Bạch thược có vị đắng chua, hơi chát, quy vào 3 kinh Can, Tỳ, Phế, có tác dụng bình can, chỉ thống, dưỡng huyết, điều kinh, liễm âm, chỉ hàn, tiêu viêm, làm mát, lợi tiểu.
Công dụng
Bạch thược chữa đau bụng, tả lỵ do ruột co bóp quá mạnh, lưng ngực đau, chân tay nhức mỏi, nhức đầu, hoa mắt, bệnh về mạch như viêm mạch huyết khối, tắc mạch, nghẽn mạch não, kinh nguyệt không đều, bế kinh, xích bạch đới, mồ hôi trộm, tiểu tiện khó. Ngày 6 – 12g dạng thuốc sắc.
Để thuốc có hiệu quả hơn, tùy theo bệnh mà chế biến thích hợp:
- Để sống có tác dụng mát dịu, chữa đau cơ bắp, nhức đầu, hoa mắt, trị tả lỵ, cảm mạo, giải nhiệt, tiểu tiện khó, mồ hôi trộm.
- Sao tẩm chữa kinh nguyệt không đều, xích bạch đới, bế kinh.
BÀI THUỐC CỔ TRUYỀN
Bài 1. Bạch thược cam thảo thang (bài thuốc của Trương Trọng Cảnh)
Chữa hai chân và đầu gối đau nhức, khó co duỗi, đau bụng, háo khát, đái đường: Bạch thược 8g, Cam thảo 4g, sắc chia 2 lần uống trong ngày hoặc tán bột mỗi lần uống 4g, ngày 3 lần.
Bài 2. Quế chi gia linh truật thang (bài thuốc của Trương Trọng Cảnh) chữa nhức đầu, mắt hoa
Bạch thược 6g, Quế chi 6g, Đại táo 6g, Sinh khương 6g, Phục linh 6g, Bạch truật 6g, Cam thảo 4g. Sắc chia 3 lần uống trong ngày.
Bài 3. Chữa kinh nguyệt không đều, đau bụng khi hành kinh, xích bạch đới, bế kinh sinh đau nhức
Bạch thược, Sinh địa mỗi vị 20g, Đương quy 10g, Xuyên khung 4g, hoặc tứ vật gia Ngưu tất (thêm Ngưu tất 20g), hoặc tứ vật gia Ngưu tất, Mần tưới (mỗi vị 15g). Sắc uống hoặc chế thành cao, hoặc viên hoàn uống.
Bài 4. Chữa băng huyết, rong huyết, hành kinh không dứt hoặc ngừng rồi lại thấy
Bạch thược, Trắc bách diệp, sao xém đen, mỗi vị 12 – 20g, sắc uống (Nam dược thần hiệu).