THÔNG TIN CHUNG
Tên gọi: Hạ khô thảo
- Tên khoa học: Prunella vulgaris L.. Họ Bạc hà (Lamiaceae).
- Đồng danh: Prunella vulgaris L., P. asiatica Nak.
- Tên khác: Black man, sicklewort, pimpernal, carpenter herb, carpenter grass.
Mô tả:
Cây thảo, sống nhiều năm, cao 20 – 30cm. Thân đứng, hình vuông, màu tím đỏ. Lá mọc đối, hình trứng hoặc hình mác, gốc thuôn, đầu nhọn hoặc hơi tù, dài 4 – 5cm, rộng 1,2 – 1,5cm, có ít lông, mép nguyên hoặc hơi có răng cưa.
Cụm hoa mọc ở đầu cành thành bông xim co, hình trụ, dài 2 – 3cm; lá bắc có màu tím đỏ ở mép; hoa nhỏ mọc thành nhiều vòng sít nhau; dài hình chuông chia hai một, môi trên rộng có 3 răng, môi dưới xẻ sâu thành hai thùy; tràng màu tím nhạt cũng có 2 môi, môi trên như cái mũ, môi dưới xẻ 3 thùy, thùy giữa lớn hơn hơi có răng; nhị 4, 2 dài, 2 ngắn mọc thò ra ngoài tràng.
Quả nhỏ, cứng.
Mùa hoa quả: tháng 4 – 6.
Dễ nhầm lẫn Hạ khô thảo với cây cải trời (Blumea lacera DC) thuộc họ Cúc (Asteraceae).
Phân bố, sinh thái:
Chi Prunella L. gồm một số ít loài, phân bố chủ yếu ở vùng ôn đới ấm châu Âu và cận nhiệt đới Châu Á. Ở Việt Nam, chi này chỉ có 1 loài là hạ khô thảo. Hạ khô thảo phân bố chủ yếu ở một số vùng thuộc Ấn Độ, Trung Quốc, Hoa Kỳ và Australia. Ở Việt Nam, cây cũng chỉ gặp ở một số nơi thuộc vùng núi cao, từ 1000m trở lên như Tam Đảo (Vĩnh Phúc); Sapa, Mường Khương, Bát Sát, Bắc Hà (Lào Cai); Đồng Văn, Mèo Vạc, Quản Bạ (Hà Giang); Sìn Hồ, Tủa Chùa (Lai Châu); Mù Cang Chải (Yên Bái).
Hạ khô thảo là cây ưa ẩm và ưa sáng, thường mọc thành đám trên đất ẩm, nhiều mùn gần bờ suối, trong thung lũng. Cây thích nghi với điều kiện khí hậu ẩm mát quanh năm, ở vùng nhiệt đới núi cao; nhiệt độ trung bình dưới 20ºC. Về mùa đông, phần thân cành trên mặt đất tàn lụi, phần thân rễ nằm sát mặt đất có thể chịu đựng được nhiệt độ thấp tới 0ºC, đến tháng 3 – 4 năm sau, tái sinh chồi trở lại. Hạ khô thảo ra hoa quả hàng năm. Quả già tự mở, hạt thoát ra ngoài, rơi xuống đài và sẽ nẩy mầm vào cuối mùa xuân hoặc đầu mùa hè năm sau. Hạ khô thảo có khả năng đẻ nhánh nhiều từ thân rễ. Do đó, trong tự nhiên cây thường mọc thành đám bò lan trên mặt đất, khó phân biệt thành từng cá thể.
Nguồn Hạ khô thảo dùng làm thuốc ở Việt Nam khá phong phú. Hàng năm cây chỉ được khai thác với khối lượng nhỏ. Tuy nhiên, cây cũng bị tàn phá nhiều do việc mở rộng đất canh tác. Cây được trồng bằng hạt, đoạn thân mang lá hoặc rễ.
Bộ phận dùng:
Cụm hoa kèm cành mang lá dài không quá 15cm tính từ ngọn hoa, thu hái vào tháng 4 – 6, sấy nhẹ đến khô.
Quản lý CITES: Không
Thành phần hóa học:
Hạ khô thảo chứa alcaloid tan trong nước, muối vô cơ 3,5% chủ yếu là muối KCl, tinh dầu có chứa camphor, D-fenchone, ít alcol fenchilic, một glucosid đắng là prunelin mà phần không đường là acid ursolic. Ngoài ra, còn có delphinidin, cyanidin.
Ở Pháp, người ta xác định trong cây có nhựa, chất đắng, tanin, tinh dầu, chất béo, lypase, một glucosid tan trong nước 0,7g/kg dược liệu khô.
Tác dụng dược lý:
Hạ khô thảo có tác dụng hạ huyết áp khá mạnh trên động vật bình thường hoặc đã được gây cao huyết áp thực nghiệm, đồng thời có tác dụng co mạch. Tác dụng này không bị ảnh hưởng bởi atropin.
Các muối vô cơ trong nước sắc hạ khô thảo, tiêm tĩnh mạch cho thỏ, gây hạ huyết áp, kích thích hô hấp và có tác dụng lợi tiểu.
Các chất tan trong nước của hạ khô thảo có tác dụng hạ huyết áp lâu dài trên bệnh nhân và làm hết các triệu chứng của bệnh cao huyết áp.
Một bài thuốc gồm 7 vị trong đó có hạ khô thảo được bào chế dưới dạng thuốc viên để điều trị bệnh tổ đỉa, phối hợp thuốc bôi ngoài. Hiệu quả khỏi và đỡ đạt 84% trong số 50 bệnh nhân được điều trị.
Hạ khô thảo còn có tác dụng an thần. Cao toàn phần và bộ phận không thể xà phòng hóa của cây hạ khô thảo không có tác dụng kích thích hoạt tính thực bào của hệ lưới – nội mô ở chuột nhắt gây nhiễm với Escherichia coli.
Trong khi nghiên cứu hoạt tính chống đột biến của các thuốc thảo mộc chống ung thư dùng trong y học Trung Quốc, bằng cách sử dụng hệ thống Salmonella – vi tiểu thể với sự hiện diện của acid picrolonic hoặc benzo (a) pyren để thử nghiệm xem chúng có chứa những chất kháng đột biến trực tiếp hoặc gián tiếp, người ta thấy dịch chiết hạ khô thảo sống được sắc với nước sôi trong 2 giờ theo phương pháp bào chế thông thường có hoạt tính kháng đột biến ở mức độ vừa phải đối với sự đột biến gây bởi acid picrolonic và có khả năng ức chế hoàn toàn tính chất gây đột biến của benzo (a) pyren.
Acid ursolic chiết xuất từ hạ khô thảo có tác dụng độc hại tế bào đối với những tế bào P – 388 và L – 1210 trong bệnh bạch cầu lympho và với tế bào A – 549 trong bệnh ung thư biểu mô phổi. Nó cũng có tính chất độc hại tế bào đối với những tế bào HCT – 8 trong ung thư kết tràng, và Mef – 7 trong ung thư vú người. Việc ester – hóa nhóm hydroxyl ở C – 3 và carboxyl ở C – 17 dẫn đến những hợp chất có tính độc hại tế bào giảm đối với những dòng tế bào ung thư người, nhưng có hoạt tính đối kháng tương đương hoặc hơi tăng đối với sự phát triển của những tế bào L – 1210 và P – 388 trong bệnh bạch cầu.
Tính vị quy kinh:
Hạ khô thảo có vị đắng, hơi cay, tính mát, quy vào kinh Can, Đởm; có tác dụng thanh can hỏa, tán uất kết, tiêu huyết ứ, tiêu sưng, mát gan, lợi tiểu, sát trùng, tiêu độc.
Công dụng:
Hạ khô thảo được dùng chữa sưng vú, tràng nhạc (lao hạch), bướu cổ, đau nhức mắt hay chảy nước mắt, viêm tử cung và âm hộ, gan mật nhiệt, huyết áp cao, viêm thần kinh da, lở ngứa, mụn nhọt, hắc lào, vẩy nến, tiểu tiện ít không thông. Ngày dùng 20 – 100g dạng thuốc sắc. Dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác.
Hạ khô thảo sấy khô
BÀI THUỐC DÂN GIAN
Bài 1. Chữa tràng nhạc, lở loét
- Hạ khô thảo 20g, sắc uống trước khi ăn cơm 2 giờ.
- Hạ khô thảo 8g, cam thảo 2g, sắc với 600ml nước còn 300ml, chia 3 lần uống trong ngày.
Bài 2. Chữa tràng nhạc, sưng tuyến giáp, quai bị, viêm tuyến vú, viêm hạch
Hạ khô thảo, huyền sâm, mỗi vị 20g, xạ can, nga truật, hoàng đằng, mỗi vị 10g. Sắc uống. Ngoài dùng hạt gấc mài với giấm bôi.
Bài 3. Chữa xích bạch đới
Hạ khô thảo tán nhỏ, mỗi lần uống 8g với nước cơm.
Bài 4. Thông tiểu tiện
Hạ khô thảo 8g, Hương phụ tử 2g, Cam thảo 1g. Sắc với 600ml nước còn 300ml, chia 3 lần uống trong ngày.
Bài 5. Chữa cao huyết áp
- Hạ khô thảo (rửa sạch phơi khô thái nhỏ) 40g, sắc với nước, chia 2 lần uống sau bữa cơm trong ngày. Uống liên tục 10 ngày, nghỉ 7 ngày, rồi uống tiếp tục như thế từ 2 – 4 đợt, tùy bệnh nặng nhẹ.
- Hạ khô thảo, Bồ công anh, Hạt muống ngũ sao, mỗi vị 20g; Hoa cúc, Lá dâu, Mã đề, mỗi vị 12g. Sắc uống.
- Hạ khô thảo, Ngưu tất, Long đởm thảo, Địa long, Hải tảo, các vị bằng nhau. Nấu thành cao lỏng. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 thìa canh pha với nước nóng.
Bài 6. Chữa viêm gan siêu vi khuẩn
- Thể cấp tính: Hạ khô thảo 40g, Thổ phục linh 12g, Nghệ vàng 10g, Mã đề 40g, Rau má 40g. Sắc uống ngày 1 thang.
- Thể mãn tính: Hạ khô thảo 30g, Ý dĩ 20g, Gừng khô 3 lát, Dành dành 12g, Hoài sơn 20g, Thổ phục linh 12g, Sâm bố chính 20g, Mã đề 10g, Trần bì 6g. Sắc uống ngày một thang. Nếu cần thiết điều trị kết hợp với Y học hiện đại.
Cây Hạ khô thảo