THÔNG TIN CHUNG
-
-
-
- Tên gọi: Hoàng kỳ
- Tên khoa học: Astragalus membranaceus (Fisch.) Bunge. Họ Đậu (Fabaceae).
- Tên khác: Tragacanth, milk – vetch (Anh).
-
-
Mô tả:
Cây sống lâu năm, cao 0,6 – 1m. Rễ dài hình trụ, mọc cắm sâu. Thân cành mảnh, nhẵn. Lá mọc so le, kép lông chim lẻ, gồm 19 – 27 lá chét, hình trái xoan, gốc và đầu tròn, lá chét tận cùng lớn hơn, mặt trên nhẵn, mặt dưới có lông trắng mịn.
Cụm hoa mọc ở kẽ lá thành chùm, dài hơn lá; hoa màu vàng; dài hình ống ngắn, 5 răng không đều; tràng có cánh cờ thẳng hình trứng thuôn; cánh bên thuôn; nhị 2 bó; bầu có nhiều noãn.
Quả đậu dẹt, to dần về phía đầu và có mũi nhọn ngắn, mặt ngoài có lông ngắn, hạt hình thận, màu đen.
Mùa hoa quả: tháng 4 – 6.
Phân bố sinh thái:
Hoàng kỳ được trồng tương đối phổ biến ở Trung Quốc. Trước đây, Viện Dược liệu có nhập hạt giống Hoàng kỳ của Liên Xô trước đây, gieo thử tại Trại thuốc Sapa, đến năm 1978 chuyển vào Đà Lạt, nhưng chưa đạt kết quả.
Hoàng kỳ là cây ưa sáng và ưa ẩm, phát triển tốt ở vùng có khí hậu ôn đới ấm, nhiệt độ trung bình khoảng 15ºC. Về mùa đông, cây rụng lá, do có phần rễ ăn sâu dưới đất nên có thể chịu được qua thời kỳ băng giá. Cây ra hoa quả nhiều hàng năm. Gieo trồng bằng hạt.
Bộ phận dùng:
Rễ đã phơi hay sấy khô của cây hoàng kỳ (cả thứ Astragalus membranaceus (Fisch.) Bge var. mongholicus (Bge) Hsiao) và được chế biến như sau:
Hoàng kỳ sống: Dược liệu rửa sạch, ủ mềm, bào hoặc thái phiến mỏng 1 – 2mm, sấy nhẹ hoặc phơi khô.
Hoàng kỳ tẩm bột sao: Lấy mật ong hòa với một ít nước sôi rồi tẩm vào hoàng kỳ đã thái phiến. Trộn đều, ủ cho thuốc ngấm nước mật, sao lửa nhỏ cho vàng, khi cầm không dính tay là được. Để nguội. Cứ 100 kg hoàng kỳ dùng 25 – 30kg mật ong (Dược điển Việt Nam III, 2002).
Thành phần hóa học:
Trong Hoàng kỳ có polysaccharide: astragalan, saccarose, glucose, tinh bột, chất nhầy, gôm.
Saponin: người ta đã tách ra được các astragalosid như: astragalosid I, astragalosid II, astragalosid III, astragalosid IV, astragalosid V, astragalosid VI, astragalosid VII, astragalosid VIII,isoastragalosid I, isoastragalosid II, soyasaponin I…
Flavonoid: 2′,4′ – Dihydroxy-5,6- Dimethoxyisoflavane… Các acid amin: Cholin, Betain, acid Folic…Sistosterol.
Tác dụng dược lý:
- Tác dụng trên hệ miễn dịch
- Nồng độ 10 mg/ml polysaccharide chiết từ hoàng kỳ làm tăng khả năng thực bào của các đại thực bào và bạch cầu đa nhân.
- Tách tế bào đơn nhân từ bệnh nhân ung thư vú với polysaccharide hoàng kỳ sẽ làm tăng hoạt tính miễn dịch, điều chỉnh lại chức năng tế bào T đã bị suy. Những nghiên cứu sâu hơn thấy polysaccharide hoàng kỳ làm tăng hoạt tính interleukin – 2.
- Tiêm tích mạch polysaccharide hoàng kỳ sẽ khắc phục được sự ức chế miễn dịch do cyclophosphamide ở chuột cống trắng.
- Nước sắc hoàng kỳ cho chuột nhắt trắng uống hàng ngày hoặc cách ngày trong 1 – 2 tuần làm tăng chức năng thực bào của hệ lưới nội mô.
- Dùng nọc rắn cho chuột lang làm giảm hoạt tính thực bào của bạch cầu. Dùng polysaccharide hoàng kỳ sẽ đối kháng chống lại những thay đổi này ỏ chuột dùng nọc rắn, nhưng không có tác dụng trên chuột bình thường.
- Tiêm trong màng bụng hoàng kỳ làm tăng trọng lượng và số tế bào lách chuột nhắt trắng, làm tăng đáp ứng của lách chống lại hồng cầu cừu và kích thích hoạt tính thực bào của các đa thực bào ở màng bụng chuột. Số đại thực bào được hoạt hóa ở lách của chuột dùng thuốc cũng tăng lên.
- Tác dụng kích thích phát triển cơ thể
- Trong nuôi cấy tế bào in vitro, hoàng kỳ làm tế bào sinh trưởng nhanh hơn, với lượng tế bào hoạt động tăng lên nhiều, tuổi thọ tế bào kéo dài hơn.
- Thụt nước sắc hoàng kỳ vào hậu môn cho chuột nhắt trắng 3 tuần liền chuột khỏe lên nhiều. Hoàng kỳ làm tăng AMP vòng GMP vòng trong tế bào.
- Trên mô hình dương suy bằng cách cắt giáp trạng ở chuột cống trắng thì thyroxin (14) giảm đi và hormon giải phóng thyrotropin (TRH) tăng lên. Hoàng kỳ là thuốc hồi dương, làm T4 tăng trở lại và làm giảm TRH. Ở chuột bình thường, hoàng kỳ ít ảnh hưởng, thường làm giảm T3 và làm tăng TRH.
- Tác dụng lên tim
- Cao cồn hoàng kỳ làm tăng tính co và biên độ co của tim ếch cô lập.
- Hoàng kỳ có tác dụng làm tăng co bóp tim bình thường. Nếu tim suy thì tác dụng càng rõ. Dùng liều cao tiêm màng bụng cho chó, sau một thời gian có thể làm sóng P đảo, và 2 pha, khoảng ST kéo dài.
- Saponin hoàng kỳ làm tăng sức co cơ tim cô lập của chuột cống trắng. Trên tế bào cơ tim nuôi, hoàng kỳ làm giảm điện thế nghỉ và tăng sức co, chứng tỏ thuốc có ảnh hưởng đến Na⁺ – K⁺ – ATPase.
- Tác dụng giãn mạch hạ huyết áp
- Tiêm dịch chiết hoàng kỳ vào tĩnh mạch cho mèo đã gây mê, hoặc thỏ không gây mê thấy giãn mạch và hạ huyết áp kéo dài. Tác giả cho rằng do hoàng kỳ làm giãn mạch, nên làm cho máu tới các cơ quan nhiều hơn, sự dinh dưỡng tốt hơn, đồng thời làm huyết áp giảm. Do giãn mạch tim và mạch thận, nên máu qua thận nhiều hơn dẫn đến tác dụng lợi tiểu.
- Dùng histamin hoặc cloroform cho chuột cống trắng hoặc chuột lang sẽ làm cho thành mạch, nhất là thành mao mạch giãn ra, làm tăng sự thẩm thấu của huyết tương qua thành mạch. Hoàng kỳ có tác dụng bảo vệ sự giãn thành mạch và hiện tượng thẩm thấu huyết tương qua mao mạch. Hoàng kỳ còn bảo vệ chống lại sự vỡ hoặc giãn mao mạch do chiếu tia X.
- Tác dụng lợi niệu: Cho chó uống hoàng kỳ liều 0,5 – 4g/kg, tác dụng lợi niệu rõ, có con lượng nước tiểu tăng gấp đôi. Nếu cho uống kéo dài, thì những ngày sau, tác dụng lợi niệu lại không rõ rệt. Uống liều quá cao, ngay ngày đầu lượng nước tiểu giảm đi, nhưng không thấy albumin niệu hoặc đường niệu.
- Tác dụng trên gan
- Saponin astramembrannin 1 của hoàng kỳ làm tăng sinh tổng hợp ADN ở chuột nhắt trắng đã cắt một phần gan và trong quá trình tái sinh gan, sự liên kết của [3H] thymidine vào gan tăng lên.
- Thí nghiệm trên chuột nhắt trắng gây tổn thương gan bằng carbon tetrachloride, thấy hoàng kỳ có tác dụng bảo vệ gan, ngăn ngừa sự giảm hàm lượng glycogen gan và làm tăng hàm lượng protein và albumin toàn phần trong huyết thanh.
- Tác dụng chống viêm: Astramembrannin I ức chế sự tăng tính thấm mạch do serotonin hoặc histamin với liều tiêm tĩnh mạch 5 mg/kg hoặc uống liều 50 mg/kg. Thuốc còn ức chế phù do carrageenan ở chuột cống trắng.
- Tác dụng trên hệ sinh dục: Hoàng kỳ gây hưng phấn sự co bóp tử cung cô lập của chuột cống có thai, nhưng lại ức chế sự co bóp của ruột thỏ cô lập. Trên thời kỳ động dục của chuột nhắt trắng, chu kỳ động dục bình thường khi không có thai là 4 – 5 ngày trong đó có 1 ngày động dục. Theo tài liệu Trung Quốc, hoàng kỳ có tác dụng làm cho thời kỳ động dục kéo dài thành 10 ngày.
- Tác dụng kháng khuẩn: Hoàng kỳ có tác dụng kháng khuẩn đối với trực khuẩn lỵ Shigella, liên cầu khuẩn dung huyết, phế cầu, tụ cầu vàng.
- Độc tính: Hoàng kỳ có độc tính cấp thấp. Cho chuột nhắt trắng uống liền 100g/kg, là liều gấp 500 lần cao hơn liều bình thường cho người, không có chuột chết và không thấy có biểu hiện tác dụng phụ có hại. Thử tác dụng sinh đột biến, dùng nghiệm pháp Ames trên vi khuẩn Salmonella typhimurium TA98 và TA100, thấy hoàng kỳ không gây đột biến. Hơn nữa cao nước hoàng kỳ có tác dụng bảo vệ chống lại sự sinh đột biến khi dùng chất gây đột biến là benzopyren.
Tính vị quy kinh: Hoàng kỳ có vị ngọt, tính ôn, quy vào 2 kinh Phế và Tỳ, có tác dụng bổ khí, thăng dương, liễm hãm, lợi tiểu, giải độc.
Công dụng:
Hoàng kỳ được dùng sống để chữa bệnh đái tháo đường, đái đục, đái buốt, phù thũng, viêm thận mạn tính, albumin niệu, lở loét, phong thấp, đau xương. Dạng tẩm mật sao chữa suy nhược lâu ngày, ra nhiều mồ hôi. Ngày dùng 6 – 12g ở dạng sống, 3 – 9g dạng sao tẩm, sắc uống hoặc chế thành cao hoặc viên.
Rễ cây Hoàng kỳ
BÀI THUỐC CỔ TRUYỀN
Bài 1. Chữa toàn thân suy nhược, khó thở, ngắn hơi, kém ăn, miệng khô, tim đập nhanh hồi hộp, mặt xanh vàng, mồ hôi nhiều, có thể sốt âm ỉ.
- Hoàng kỳ sao mật 6 phần, Cam thao 1 phần (nửa dùng sống, nửa sao vàng). Tất cả tán nhỏ, mỗi lần uống 4 – 8g, ngày 3 lần, sáng, chiều và tối. Có thể sắc uống (Hoàng kỳ lục nhất thang).
- Hoàng kỳ tẩm mật sao 6g, Thược dược 5g, Quế chi 2g, Cam thảo 2g, Sinh khương 4g, Đại táo 6g, sắc, chia 3 lần uống trong ngày. Trước khi uống có thể thêm mạch nha hoặc mật ong (Hoàng kỳ kiên trung thang).
- Hoàng kỳ 16g; Bạch truật, Đảng sâm, Đương quy, mỗi vị 12g; Sài bồ, Trần bì mỗi vị 6g; Thăng ma, Trích thảo mỗi vị 4g. Có thể thêm Huyền sâm 10g, Tri mẫu 8g. Thường dùng khi cơ thể hư nhược trong các bệnh mạn tính (Bổ trung ích khí thang).
- Hoàng kỳ 24g; Bạch truật, Phòng phong mỗi vị 8g. Tán thành bột mịn, trộn đều, mỗi lần 6 – 8g, ngày 2 lần. Uống với rượu hoặc nước (Ngọc bình phong tán).
Bài 2. Chữa nhũn não
Truyền mỗi ngày 250 ml dịch chế từ 4 vị Hoàng kỳ, Đơn sâm, Xuyên khung, Xích thược vào tĩnh mạch. Mỗi đợt 10 ngày, nghỉ 4 ngày lại truyền đợt khác. Kết hợp uống bài “thông mạch” gồm Hoàng kỳ, Hồng hoa, Xuyên khung, Đan sâm, Sơn tra, Ngưu tất, Địa long, Quế chi. Đã điều trị 110 ca nhũn não, khỏi 52, kết quả tốt 36, tiến bộ 20, tỷ lệ đạt 98,2%.
Bài 3. CHữa ho, viêm phế quản
Hoàng kỳ 24g, Tuyên phục hoa 10g, Bách bộ 10g, Địa long 6g, chế thành viên, uống trong 3 ngày. Dùng 10 ngày, liền 3 – 4 đợt.
Bài 4. Chữa bệnh mạch vành (thiếu máu cơ tim và nhồi máu cơ tim)
Hoàng kỳ 30g; Xích thược, Đan sâm mỗi thứ 15g, Đương quy 12g, Xuyên khung 10g. Ngày một thang sắc uống. Dùng 4 – 6 tuần.
Bài 5. Thuốc bổ huyết
Khi bị huyết hư có sỏi, hoặc sau khi mất nhiều máu. Hoàng kỳ 40g, Đương quy 8g sắc uống.
Bài 6. Chữa viêm thận
Hoàng kỳ và Phòng kỳ đều 12g, Bạch truật 8g, Cam thảo 4g, Gừng tươi 12g, Đại táo 3 quả, sắc uống. (Hoàng kỳ phòng kỷ thang).
Bài 7. Chữa phì đại tuyến tiền liệt
Hoàng kỳ sống 100g, Hoạt thạch 30g, sắc 2 lần, trộn đều, thêm hổ phách 3g tán bột cho vào thuốc chia ra uống trong ngày lúc đói.
Vị thuốc Hoàng kỳ