THÔNG TIN CHUNG
Tên gọi: Quế
- Tên khoa học: Cinnamomum cassia Blume.. Họ Long não (Lauraceae).
- Tên khác: Quế đơn, quế bì, quế Trung Quốc, nhục quế, mạy què (Tày), kía (Dao), Chinese cassia, Chinese cinnamon, cassia bark (Anh).
Mô tả:
Cây to, cao 10 – 20m. Cành hình trụ, nhẵn, màu nâu. Lá mọc so le, dày cứng và dai, hình mác, dài 12 – 25cm, rộng 4 – 8cm, gốc thuôn, đầu nhọn, mặt trên nhẵn, màu lục sẫm bóng, mặt dưới màu xám tro, hơi có lông lúc còn non; gân 3, hình cung, nổi rõ ở mặt dưới, gân bên kéo dài đến đầu lá, gân phụ nhiều, song song; cuống lá to, dài 1,5 – 2cm, có rãnh ở mặt trên.
Cụm hoa mọc ở kẽ lá gần đầu cành thành chùy dài 7 – 15cm; bao hoa gồm 6 phiến gần bằng nhau, màu trắng, dài 3mm, mặt ngoài có lông nhỏ.
Quả hạch, hình trứng hoặc hình bầu dục, có cạnh dài 1,2 – 1,3 cm, nằm trong đài tồn tại nguyên hoặc chia thùy.
Vỏ và lá vò ra có mùi thơm.
Mùa hoa: tháng 4 – 7; mùa quả: tháng 10 – 12.
Cây có cùng công dụng:
Ngoài loài quế nêu trên, nhiều loài khác cũng được gọi là quế như quế quan, quế Thanh, quế rành.
- Quế quan: (Cinnamomum zeylanicum Blume, C. verum S. Presl), tên khác: quế ống, quế Srilanka, quế khâu. Cây có kích thước trung bình. Cành non có 4 cạnh, hơi dẹt có lông nhỏ rải rác. Lá mọc đối hoặc gần đối (ít khi so le), hình bầu dục, gân lá 3 – 5, gồ lên ở cả hai mặt. Cụm hoa dài hơn lá; bao hoa dài 5 – 6mm, màu vàng. Quả dài 1,3 – 1,7cm, có đài tồn tại to. Mùa hoa quả: tháng 5 – 9.
- Quế Thanh: (Cinnamomum loureirii Nees. C. obtusifolium Nees var. loureirii Perrot et Ebert), tên khác: quế quỳ, de bầu, quế tử, quế lá tù, ngọc quế. Cây to, cành non có cạnh, có lông, sau nhẵn. Lá thuôn đến mác thuôn, có mũi nhọn mềm, mặt dưới phủ vảy nhỏ, gân bên không kéo dài đến đầu lá, gân phụ mờ. Hoa trắng, bao hoa dài 3mm. Quả dài 8 – 10mm, đài tồn tại nhỏ.
- Quế rành: (Cinnamomum burmannii (Nees) Blume), tên khác: quế bì, quế xanh, trèn trèn, quế lợn, âm hương. Cây có dáng đẹp, vỏ nhẵn, màu xám. Lá thuôn màu lục sẫm ở cả hai mặt. Cụm hoa ngắn, mảnh. Quả gần hình cầu, có mũi nhọn. Mùa hoa tháng 7.
Phân bố sinh thái:
Cinnamomum Blume là một chi lớn gồm khoảng 270 loài, hầu hết là cây gỗ; phân bố tập trung ở vùng nhiệt đới Châu Á. Ở Ấn Độ có 20 loài; Trung Quốc 12 loài và Việt Nam 40 loài.
Ở Việt Nam nhiều loài mang tên ‘quế’, trong đó, có 3 loài là cây trồng, còn lại là mọc hoang dại. Quế cũng được trồng ở một số tỉnh Vân Nam, Quảng Tây của Trung Quốc.
Quế có nguồn gốc ở Việt Nam, cách đây hơn 2000 năm, các triều đại phong kiến đã coi ‘quế Giao Chỉ’ (Giao Chỉ là tên nước Việt cổ) như là sản vật quý để trao đổi và triều cống (Lê Trần Đức, 1990). Song, hiện nay vẫn chưa xác định được cụ thể cây được trồng từ bao giờ. Nhiều vùng quế đã được hình thành từ lâu đời ở Yên Bái; Quảng Ninh; Thanh Hóa (Thường Xuân); Quảng Nam (Trà My, Phước Sơn) và Quảng Ngãi (Trà Bồng) … Quần thể quế mọc hoang dại được phát hiện trong các kiểu rừng kín thường xanh còn nguyên sinh hay tương đối nguyên sinh ở độ cao 500m (miền Bắc) – 700m (miền Nam) trở lên. Tuy nhiên, do quá trình chọn lọc và trồng trọt lâu dài, giữa quế mọc tự nhiên và các giống quế trồng hiện có nhiều sai khác về phẩm chất dược liệu.
Quế là cây gỗ ưa sáng và chịu bóng, nhất là thời kỳ cây còn nhỏ (1 – 5 năm). Cây ưa khí hậu nhiệt đới nóng và ẩm, nhiệt độ trung bình năm cho cây sinh trưởng phát triển mạnh là 22ºC – 23ºC; độ ẩm không khí trung bình khoảng 80%; lượng mưa hàng năm khoảng 1600mm hoặc hơn. Cây mọc được trên nhiều loại đất ẩm, nhiều mùn và tơi xốp, pH: 4,5 – 5,5. Quế có bộ rễ cọc khỏe, cắm sâu xuống đất nên ít bị đổ khi có gió bão.
Quế được trồng rất nhiều tại Việt Nam
Bộ phận dùng:
Vỏ thân, vỏ cành non được phơi hoặc sấy khô (Quế chi)
Vỏ thân được phơi khô trong bóng râm (Quế nhục).
Tinh dầu từ cành hoặc lá.
Thành phần hóa học
Vỏ quế nói chung chứa tinh dầu có thể đến 4% (thông thường 1%), tanin (gồm nhiều đơn vị 3, 5, 3’, 4’ – tetrahydroflavan – 3,4 – diol đã được polyme hóa), catechin và proanthocyanin, dầu béo, chất nhựa, chất nhầy, gôm, đường, calci oxalat, 2 hợp chất có tác dụng diệt côn trùng (cinnzelanin và cinnzelanol), tinh bột, protein, chất vô cơ, coumarin … (A. Y Leung và cs, 1996; Prosea 13, 1999).
Tính vị quy kinh:
Quế có vị ngọt, cay, mùi thơm, tính rất nóng, có tác dụng bổ hỏa, hồi dương, ấm thận tỳ, thông huyết mạch, trừ hàn tích.
Công dụng:
Quế được dùng làm thuốc cấp cứu bệnh do hàn như chân tay lạnh, mạch chậm nhỏ, hôn mê, đau bụng, trúng thực, phong tê bại, chữa tiêu hóa kém, tả lỵ, thũng do tiểu tiện bất lợi, kinh bế, rắn cắn, ung thư.
Ngày dùng 1 – 4g dưới dạng thuốc hãm, hoàn tán hoặc mài với nước mà uống.
Kiêng kỵ: Những người âm hư, dương thịnh và phụ nữ thai nghén không nên dùng.
Theo tài liệu nước ngoài, vỏ quế bì được dùng trong Y học Trung Quốc để chữa những chứng bệnh sau:
- Cảm lạnh, phối hợp với Nhân sâm, Hoàng kỳ, Thục địa.
- Tiêu chảy, phối hợp với Mộc hương, Phục linh, Nhục đậu khấu.
- Đau vùng hông, phối hợp với Phụ tử, Địa hoàng.
- Đau dạ dày, đau bụng, đau kinh, phối hợp với Đương quy, Hương phụ.
- Mụn nhọt lâu lành, phối hợp với Ma hoàng, Cao nhưng, Bạch giới tử.
Liều dùng mỗi ngày: 2 – 7,5g, sắc nước uống. Hoặc tán bột, mỗi ngày uống 0,5 – 2g, ngày uống 1 – 2 lần.
Vỏ cành quế trị:
- Cảm mạo, sốt, ra mồ hôi, sợ lạnh phối hợp với Bạch thược, Cam thảo, Sinh khương, Hồng táo (Quế chi thang).
- Phong hàn thấp, đau khớp, phối hợp với Phụ tử, Sinh khương, Cam thảo (Quế chi thang gia Phụ tử).
- Tim hồi hộp, tức ngực, ho có đờm loãng phối hợp với Phục linh, Bạch truật, Cam thảo (Quế chi thang gia Phục linh Bạch truật).
- Bế kinh đau bụng, thống kinh phối hợp với Xuyên khung, Đương quy, Ngô thù du, Xích thược.
- Sốt rét, phối hợp với Xuyên khung, Bạch chỉ, Thương truật.
Liều lượng: ngày 2 – 11g, dạng thuốc sắc.
Quế cành trị:
- Đau dạ dày do lạnh, tiêu chảy.
- Đau phong thấp.
- Vết thương phần mềm (dùng bột rắc vết thương).
Liều dùng: mỗi ngày 2 – 11g, sắc uống. Còn dùng dạng bột, mỗi lần 1 – 3g.
Quế Thanh chủ trị:
- Đau dạ dày, đau bụng do lạnh, uống dạng bột 1 – 2g.
- Loét dạ dày, hành tá tràng.
- Vết thương chảy máu, dùng bột rắc.
- Gãy xương, dùng bột làm thành hồ, bôi bên ngoài.
Liều dùng: mỗi ngày 2 – 11g, sắc uống. Hoặc dạng bột, mỗi ngày 1 – 2g.
Khai thác quế
BÀI THUỐC CỔ TRUYỀN
Bài 1. Quế chi thang, trị cảm mạo, sốt, ra mồ hôi, sợ lạnh
Quế chi 8g, Cam thảo 6g, Thược dược 6g, Sinh khương 6g, Đại táo 4 quả, sắc 600ml nước còn 200ml. Chia 3 lần uống trong ngày.
Bài 2. Chữa đau bụng
Bột vỏ cành quế 4g, ngâm rượu uống.
Bài 3. Chữa tiêu chảy
Vỏ thân quế 4 – 8g, gạo nếp rang vàng 10g, hạt cau già 4g, gừng nướng 2 lát. Sắc uống.
Bài 4. Chữa sai khớp, bong gân, chấn thương
Cao dán gồm hỗn hợp tinh dầu quế, hồi, menthol, camphor, cao ngải cứu, cao cúc tần, được trộn đều vào hỗn hợp keo cao su.
Bài 5. Chữa thấp khớp mãn tính thể hàn (Trường hợp bệnh đang tiến triển, có hoặc không sưng khớp và đau nhiều)
- Quế chi 12g, Rễ cỏ xước 40g, Hy thiêm 28g, Thổ phục linh 20g, Cỏ nhọ nồi 16g, Ngải cứu 12g, Thương nhĩ tử 12g, Thiên niên kiện 12g. Sao vàng, sắc đặc, ngày uống 1 thang, trong 7 – 10 ngày liền.
- Quế tiêm 12g, Bạch thược 12g, Phòng phong 12g, Thương truật 12g, Ma hoàng 8 – 12g, Cam thảo 8g, Hắc phụ 8g. Sắc và chia 3 lần uống trong ngày.
- Quế chi 8g; Độc hoạt, Tang ký sinh, Tần giao, Bạch linh, Phòng phong, Tục đoạn, Ý dĩ, Bạch thược, Xuyên quy, Ngưu tất, Thục địa, Đảng sâm, mỗi vị 12g; Xuyên khung 8g; Cam thảo, Tế tân, mỗi vị 6g. Sắc uống ngày 1 thang.
- Quế chi 250g, Thương truật 260g; Hắc phụ chế, Cam thảo, mỗi vị 160g; Ma hoàng, Tế tân, mỗi vị 80g. Thương truật ngâm nước gạo, thái mỏng, sao vàng, các vị khác thái nhỏ phơi khô, tán lẫn, rây mịn. Ngày uống 20g, chia 2 lần trước bữa ăn.
Bài 6. Chữa viêm khớp dạng thấp đang tiến triển
Quế chi, Bạch thược, Thương truật, Phòng phong, Tri mẫu, mỗi vị 12g; Gừng tươi, Ma hoàng, Hắc phụ chế, mỗi vị 8g; Cam thảo 6g. Sắc uống ngày 1 thang.
Bài 7. Chữa suy nhược cơ thể do bệnh đường tiêu hóa
Nhục quế 4g; Đảng sâm, Bạch truật, Hoàng kỳ, Đại táo, mỗi vị 12g; Trần bì, Ngũ vị tử, mỗi vị 6g, Cam thảo 4g, Gừng 2g. Sắc uống ngày 1 thang.
Bài 8. Chữa dương hư, khí lực suy nhược, di tinh, liệt dương, thai nghén khó khăn, sợ lạnh
Nhục quế 12g; Thục địa 24 – 32g; Sơn thù, Hoài sơn, Bạch linh, mỗi vị 16g; Mẫu đơn, Trạch tả, mỗi vị 8g. Tán bột làm viên, mỗi ngày uống 30 – 40g hoặc sắc uống.
Bài 9. Chữa viêm phế quản mãn tính
Quế chi 12g, Phục linh 16g, Bạch truật 8g, Cam thảo 4g. Sắc uống ngày 1 thang.
Bài 10. Chữa viêm loét dạ dày, tá tràng
Quế chi 8g, Hoàng kỳ 16g, Đại táo 12g; Hương phụ, Bạch thược, mỗi vị 8g; Sinh khương, Cam thảo, Cao lương khương, mỗi vị 6g. Sắc uống ngày 1 thang.
Bài 11. Chữa viêm cầu thận cấp tính
Quế chi 8g; Bạch truật, Phục linh, Trạch tả, mỗi vị 12g; Trư linh 8g. Sắc uống ngày 1 thang.